Đại học Việt Nam hiện nay
Lâm Văn Bé*
Montréal, Canada
Đại học lạm phát
Trên thế
giới, không một quốc gia nào có số đại học mới thành lập chiếm kỷ lục
trong một thời gian rất ngắn như ở Việt Nam (VN).
Năm 1998,
VN có 123 trường đại học và cao đẳng, năm 2008, VN có 369 trường, không
kể 71 Viện nghiên cứu có đào tạo sinh viên hậu đại học. Chỉ trong 10 năm, VN
tăng thêm 317 cơ sở giáo dục và nghiên cứu đại học, chiếm tỷ lệ 257%. Ngoài ra,
còn phải kể thêm 120 trường cao đẳng nghề trung cấp (tên gọi «chết người» cao
đẳng mà trung cấp) trực thuộc Bộ Thương Binh Xã hội và Lao Động. (nguồn :
Bộ Giáo Dục Đào Tạo- Số liệu thống kê Giáo Dục Đại Học 2008- 2009)
Trong số
270 trường mới thành lập, thực sự chỉ có 94 trường tân lập hoàn toàn ( theo
Nguyễn Thiện Nhân phát biểu trước Quốc Hội ngày 7/6/2010), số còn lại là
trường nâng cấp từ trường thấp hơn (trung cấp, cao đẳng, học viện trở
thành đại học), trường đại học tư thục, đại học bán công. Tham nhũng và bè
phái, bản chất căn bản của chế độ là nguyên nhân của việc lạm phát đại học.
Tham nhũng đã làm băng hoại giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học là thành trì
kiến tạo quốc gia, bởi lẽ các phe nhóm đã cấu kết nhau để lợi dụng việc lập
trường đại học hầu tìm lợi nhuận, tạo thế lực.
Tổ chức
các đại học đặt dưới quyền quản lý chồng chéo của nhiều cơ quan lãnh đạo khác
nhau, thí dụ trường Đại học Kinh Tế Thái Nguyên phải chịu sự quản lý của Bộ
Giáo Dục và Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thái Nguyên, trường Đại học quân sự phải
theo lệnh của Bộ Quốc Phòng và Bộ Giáo Dục. Các địa phương tranh nhau mở
trường, nhiều chương trình đào tạo giống nhau, các trường tranh chấp nhau,
nhiều ngành học không xứng danh đặt trong học trình đại học, hay phát triển một
cách đại qui mô ở khắp các địa phương. Có ít nhất 21 đại học quân sự, 4 đại
học công an, không kể các học viện có qui chế như trường cao đẳng. Trên
63 tỉnh và thành phố của cả nước chỉ có 3 tỉnh chưa có đại học, tỉnh Bắc Kạn có
dân số ít nhất cũng có một trường cao đẳng. Nhiều loại đại học có tên ngộ
nghĩnh : đại học Dân lập, đại học Mở, đại học FPT, Viện Đào Tạo
Răng-Hàm-Mặt, đại học Phòng cháy chửa cháy, đại học Công an nhân dân….
Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh lớn có tổng cộng 15 đại
học gọi là đại học Trọng điểm trong đó có 2 đại học quốc gia TP Hồ
Chí Minh và Hànội mà người đứng đầu được gọi là giám đốc, còn người chỉ huy
các loại đại học khác được gọi là hiệu trưởng.
Hãy đọc
định nghĩa của vài đại học Cộng Sản. Đại học Mở là cơ sở đào tạo từ xa, đào
tạo tại chỗ, đào tạo tại các điểm vệ tinh, còn đại học tư thục gọi là đại
học dân lập theo chủ trương xã hội hóa giáo dục của đảng và nhà nước VN.
Thông
thường, thành lập một đại học là một biến cố giáo dục quan trọng, đem lại niềm
tự hào cho một quốc gia. Nhưng với VN, mở thêm một đại học là tạo thêm một tập
đoàn kinh doanh, mở rộng thêm một vết rạn nứt của ngôi nhà đại học cổ lỗ rêu
phong và đến nay ngôi nhà đã đến hồi sụp đổ. Đại học VN hôm nay chỉ còn
xếp ngang hàng với Miên và Lào, là một mối nhục lớn cho một quốc gia có 85
triệu dân, đã có một lịch sử giáo dục và văn hóa tốt đẹp trước khi Cộng Sản
thống nhứt sự trì trệ từ Bắc vô Nam.
Trên thế
giới, không có quốc gia nào lập trường đại học mà chưa có cơ sở và giáo
sư cơ hữu như VN. Trước tình trạng nguy kịch của đại học, Quốc Hội đã phải
thành lập một Ủy Ban Điều Tra và trong báo cáo hồi tháng 12 năm 2009 cho biết
là 20% số trường mới mở chưa xây dựng trường sở, phải thuê mướn cơ sở thiếu
tiện nghi và các trang bị cần thiết cho việc học tập và giảng dạy.
Sau đây là
một đoạn văn trong báo Tuổi Trẻ online ngày 10 tháng 7 năm 2010
liên quan đến trường đại học dân lập Hồng Bàng :
“Liên tục trong năm, sáu năm, gần như năm nào trường cũng tăng học phí.
Chẳng hạn năm 2005, sinh viên ngành điện - điện tử đóng học phí 2.980.000
đồng/năm thì đến năm học 2006-2007 đã tăng lên 4.480.000 đồng/năm, bước sang
năm học 2008-2009 học phí lên thành 5.880.000 đồng/năm. Vừa bước sang học kỳ II
năm học này, trường đột ngột tăng học phí lên 3.490.000 đồng/học kỳ. Trong công
bố mới nhất, học phí ngành thấp nhất của trường đã lên đến 6.980.000 đồng/năm
và ngành cao nhất đạt mức gần 14.000.000 đồng/năm.Trường hiện nay có trên mười
địa điểm học. Trong đó hầu hết là các địa điểm thuê mướn. Văn phòng các khoa,
phòng công tác chính trị sinh viên, văn phòng Đoàn được đặt ở chín địa điểm khác
nhau, nằm rải rác khắp các quận khá xa trung tâm TP.HCM. Lần theo một địa chỉ
trên bảng hướng dẫn, chúng tôi tìm đến cơ sở số 89 Nguyễn Đình Chiểu (Q.Phú
Nhuận). Đến nơi, chúng tôi ngỡ ngàng khi trước mắt là biển hiệu của Công ty CP
Bao bì dược, đi sâu vào hẻm mới thấy bảng tên Trường ĐHDL Hồng Bàng. ”
Trường hợp
Đại Học Hồng Bàng là điển hình của chợ trời đại học VN. Trong khi chánh phủ
đóng cửa 10 trường hồi cuối năm 2009 vì mở trường đã lâu mà không có cơ sở,
chánh phủ lại cho mở thêm những trường mới, và chuyện cạnh tranh mở trường đại
học để trục lợi đã nói lên một khía cạnh vô liêm sĩ của chế độ Cộng Sản là
không từ bỏ bất cứ cơ hội nào để tham nhũng và trục lợi, ngay trong lãnh
vực đào tạo trí tuệ và đạo đức con người.
Theo một
tin tức mới nhất đăng trong VNeconomy ngày 19/4/2010 thì từ con số 369 trường
đại học năm 2008, đến đầu năm 2010 đã tăng lên 412 và trong số 412
trường đại học cao đẳng, Bộ Giáo Dục chủ quản 58 trường (14%), các bộ, ngành
khác và các doanh nghiệp quản lý 130 trường (31,6%), Ùy Ban Nhân Dân tỉnh,thành
phố quản lý 134 trường (32,5%), hai trường Đại học Quốc Gia quản lý 13 trường
(3,1%) và 77 trường tư không có cơ quan chủ quản (18,6%).
Đại học VN
đã mất quyền tự chủ, đặc tính truyền thống của tổ chức đại học. Đảng Cộng Sản nắm
quyền đại học ở mọi cấp : tất cả quyết định về đường lối quản trị, chương
trình giảng dạy đều phải có sự chấp thuận của Bí thư đảng ủy, các giáo sư lệ
thuộc vào Công đoàn và tất cả sinh hoạt của sinh viên được huy động bởi Ban bí
thư Đoàn Thanh niên.
Trong một
báo cáo tháng 11/2008 của Trường Lãnh đạo Kennedy thuộc Đại Học Harvard
(Harvard Kennedy School, ASH Institute) tựa là Vietnamese Higher
education: crisis and response đã viết:
“Nguyên
nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng đại học VN ngày nay là sự thất bại nghiêm
trọng trong vấn đề quản lý. Các trường đại học có uy tín từ Boston đến Bắc kinh đều có những yếu tố căn
bản mà VN không có.
Trước
hết là vấn đề tự trị đại học. Các đại học VN vẫn chịu một sự quản lý tập trung
cao độ. Chính phủ trung ương quyết định số sinh viên được tuyển, tiền lương của
giáo sư, ngay cả việc thiết lập hội đồng khoa và việc điều hành.
Tham
nhũng là phổ quát và ai ai cũng biết là bằng cấp, học hàm, học vị đều có thể
mua bán. Hệ thống tổ chức nhân sự không rõ rệt, việc bổ nhiệm thăng thưởng dựa
trên những tiêu chuẩn phi học thuật (non-scholastic) như thâm niên, lý lịch gia
đình và chính trị, và các liên hệ cá nhân. Các người lãnh đạo thường là
các người đã tốt nghiệp từ Liên Sô hay Đông Âu, không nói được tiếng Anh và
không có thiện cảm với những người được đào tạo từ các đại học Tây phương.” (Memorandum Higher Education Task
Force / Thomas J.Valley & Ben Wilkinson, p.3-4).
Đại học VN
lại bị hiện tượng một cổ đôi tròng (phải nói là nhiều tròng). Ngoài chính phủ
trung ương gồm nhiều bộ, các đại học địa phương, công cũng như tư, còn phải
chịu sự chi phối của chính quyền tỉnh. Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh có quyền «
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, cách chức, giáng chức vị trí người đứng
đầu trường đại học, cao đẳng ờ địa phương. Có quyền công nhận hay không công
nhận hội đồng quản trị, hiệu trưởng các đại học tư trên địa bàn, giám sát chất
lượng cơ sở đào tạo đại học đóng trên lãnh thổ…» (Tin mới VN, ngày
21/04/2010).
VN hôm nay
trở lại thời kỳ thuộc địa ngu dân thuở xưa bởi lẽ các cơ sở giáo dục cao cấp
lại đặt dưới quyền sinh sát của các chủ tịch UBND tỉnh, mà đa số là những cán
bộ ít học hay thất học, chỉ vì phe cánh hay trung kiên với đảng được cất nhắc
làm lãnh chúa ở các địa phương, thì thử hỏi trong một hoàn cảnh như vậy, đại
học VN bảo sao mà không lạc hậu.
Thực ra,
các ông bà chủ tịch UBND tỉnh có sự cố vấn của các ông giám đốc sở Văn Hóa Giáo
Dục địa phương mà đa số đều có bằng tiến sĩ. VN hôm nay có chánh sách giúp đỡ
các đảng viên bằng phương thức «vừa làm vừa học» để có một học vị tương xứng
với chức vụ.
Không nơi
nào trên thế giới có chế độ vừa làm vừa học phát đạt như ở VN. Trong số
1 719 499 sinh viên đại học và cao đẳng năm 2008, số sinh viên vừa
làm vừa học là 509 808 người, chiếm tỷ lê 29,6% ( nguồn : Bộ Giáo Dục
đào tạo. Số liệu thống kê 2008-09). Con số trên còn phơi bày một thực trạng
yếu kém của bộ máy công quyền bởi lẽ với nửa triệu cán bộ công chức vừa đi học
vừa đi làm thì thời giờ đâu để làm việc phục vụ dân chúng và thời giờ đâu để
học có cấp bằng. Bằng cấp giả, bằng cấp dỏm do đó đã nở rộ lên cùng lúc với
phát triển đại học.
Chuyện lạ
mà có thật ở VN. Báo chí VN hồi tháng tư năm nay tường thuật Ông Nguyễn Ngọc
Ân, giám đốc Sở Văn hóa Thể Thao tỉnh Phú Thọ vừa đậu bằng tiến sĩ do một
trường đại học ở Mỹ cấp, dù ông không nói được tiếng Mỹ và chẳng bao giờ đi
học. Ông cho biết là ông tốn 17 000 mỹ kim để đi Hawaï 2 tuần để nhận bằng
từ đại học South Pacific University là một đại học đã bị tòa án tiểu bang Hawaï
đóng cửa từ năm 2003 nhưng vẫn tiếp tục bán văn bằng. Cũng cần biết là số tiền
17 000 mỹ kim là do ngân sách của tỉnh Phú Thọ «hổ trợ».
Chuyện ông
tiến sĩ có bằng Mỹ không biết tiếng Mỹ đã phơi bày một bi hài kịch về học vị
tiến sĩ ở VN. Nhiều trưởng cơ quan, đảng viên cao cấp đã có bằng tiến sĩ hay
thạc sĩ theo kiểu học cho có lệ tại sở làm để rồi được các đại học VN cấp
văn bằng dưới áp lực chính trị, tình cảm hay mua bán. Chuyện ông tiến sĩ
giấy lại phơi bày thêm một khía cạnh đạo đức của xã hội VN vì có tờ báo cho là
bằng cấp của ông Ân là bằng thật chớ không phải bằng giả bởi không phải do ông
ngụy tạo ra, ông có đến Mỹ trình luận án của ông tựa là «Bảo tồn văn hóa phẩm
tỉnh Phú Thọ» qua một thông dịch viên, đại học Mỹ đã cấp văn bằng tiến sĩ và
chỉ có chánh phủ Mỹ mới có quyền hủy bỏ văn bằng. Như vậy, cùng lắm có thể nói
bằng tiến sĩ của ông Ân là tiến sĩ dỏm chớ không phải là tiến sĩ giả. Chuyện
tranh cải tương tự cũng xảy ra với trường hợp ông Nguyễn Văn Ngọc, Phó
Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Yên Bái cũng có bằng tiến sĩ tuy không đi học,
không biết tiếng Mỹ, sau 6 tháng nhận trợ cấp của chánh phủ 74 triệu
đồng. Ông Ân cũng cho biết có 10 đồng chí của ông nhận được bằng tiến sĩ
của đại học ma nầy.
Nhà văn Võ
thị Hảo, hiện sống trong nước đã trả lời như sau trong cuộc phỏng vấn của đài BBC
ngày 6/7/2010:
“Xã hội VN hôm nay vô đạo quá. Tôi
nghĩ cái căn nguyên của vấn đề là bởi con người đã giả dối quá lâu. Từ
khi bắt đầu tiếp xúc với xã hội, từ đứa bé mẫu giáo trở đi đã phải bắt đầu nói
dối rồi, từ những bài hát, từ những câu chào…rồi sau đó bắt chước người lớn
cách hành xử…Cái quan trọng nhất là những tấm gương, những quản lý xã hội,
những người lãnh đạo cho đến những người thầy, cô giáo…, những người ít ra phải
sống đàng hoàng, đáng tin cậy, có đạo nghĩa, nhưng ít có người sống như vậy hôm
nay…”
Giáo sư
Cử nhân dạy sinh viên Cử nhân và đại học hoàn toàn bị chính trị hóa
Từ 1998
đến 2008, nếu số sinh viên đại học tăng lên 13 lần thì số giáo sư chỉ tăng lên
3 lần. Con số chính thức của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội về Giáo dục công bố là năm
2008, “trong tổng số 61 190 giảng viên đại học,
chỉ có 2 286 có chức danh giáo sư, phó giáo sư (3,8%) , 6 217
tiến sĩ (10%), 22 831 thạc sĩ (37,3%), số còn lại là cử nhân chiếm gần
50%. Về thực tập các ngành chuyên khoa rất ít. Thí dụ tại Trường Đại học Y-Dược
Cần Thơ, trong giờ giải phẩu, mỗi sinh viên được thực hành trên một con ếch và
5 sinh viên thực hành trên một con chó. Nay vì thiếu ngân sách, 10 sinh viên
mới có 1 con ếch và 30 sinh viên 1 con chó”.
Giáo sư cử
nhân dạy sinh viên cử nhân trên phân nửa các đại học, và càng trầm trọng hơn,
các trường chuyên nghiệp trung cấp sau khi được nâng cấp thành trường cao đẳng
hay đại học, các giáo sư trung cấp cũng nghiểm nhiên thành giáo sư đại học.
Giáo sư
không có trình độ, lối giảng dạy theo kiểu thầy đọc trò chép, chương trình
giảng dạy không ứng dụng vào đời sống, thi nhập học và thi tốt nghiệp bằng hối
lộ và tham nhũng, tất cả các tệ hại nầy đã đưa đến hậu quả tất nhiên là “có những sinh viên tốt nghiệp đại học mà vẫn
chưa biết tra cứu một quyển sách chuyên đề hay tra tự điển. Những kiến thức
sinh viên nhận được đều lấy từ sách vở và do giáo viên cung cấp. Sinh viên
không biết tự tìm tòi, nghiên cứu.” (Giáo duc đại hoc. www.tgvn.com.vn
16/3/2010)
Ngoài việc
giáo sư thiếu khả năng, chương trình giảng dạy phải rập theo đường lối của
đảng. Từ mẫu giáo đến đại học, giáo dục hoàn toàn bị chính trị hóa mà việc học
tập lý thuyết Cộng Sản và tư tưởng Hồ Chí Minh đứng hàng đầu trong các môn học,
ngành học.
Đề thi Tú
Tài năm 2010 môn Sử Học là một chứng minh rõ rệt cho bản chất lạc hậu của nền
giáo dục bởi lẽ trong 3 câu hỏi thì 2 câu liên hệ đến bác và đảng.
Sau đây là
đề thi Tú Tài môn Sử học năm 2010 :
KÌ
THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG NĂM 2010
Môn thi: LỊCH SỬ - Giáo dục trung học phổ thông
I. PHẦN
CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (7,0 điểm)
Câu 1. (4,0 điểm)
Trình bày
hoàn cảnh lịch sử của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Nêu vai trò của
Nguyễn Ái Quốc trong hội nghị trên.
Câu 2. (3,0 điểm)
Vì sao Đảng
và Chính phủ ta phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp? Tóm tắt
cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội trong những tháng đầu toàn quốc kháng
chiến (từ ngày 19 -12 -1946 đến ngày 17 -2 -1947).
II. PHẦN
RIÊNG – PHẦN TỰ CHỌN (3,0 điểm)
Thí sinh
chỉ được làm một trong hai câu (câu 3.a hoặc 3.b)
Câu 3.a Theo
chương trình Chuẩn (3,0 điểm)
Trình
bày sự thành lập, mục đích và nguyên tắc hoạt động của tổ chức Liên hợp quốc
Câu 3.b Theo
chương trình Nâng cao (3,0 điểm)
Toàn cầu
hóa là gì ? Nêu những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa trong nửa sau
thế kỉ XX.
Chương
trình học giáo điều cộng sản như trên tiếp diễn ở bậc đại học với một mức độ
«cao cấp» hơn. Tất cả sinh viên mọi ngành đều phải học từ 20 đến 30 đơn vị học
trình về 5 môn chính trị :
-
Triết học Mác-Lênin
-
Kinh tế chính trị Mác-Lênin
-
Chủ nghĩa xã hội khoa học
-
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Mỗi đơn vị
học trình gồm 15 tiết (giờ) học lý thuyết, 30-45 giờ thực hành hay thảo luận,
45-60 giờ làm tiểu luận, 45-90 giờ thực tập tại cơ sở. Như vậy, thời gian tối
thiểu cho mỗi đơn vị khoảng 130 giờ, và tổng số giờ học chính trị chiếm
hơn 2000 giờ không kể 165 giờ học quân sự. Nói chung, chương trình huấn luyện
chính trị và quân sự chiếm 25% học trình cử nhân khiến nhiều nhà giáo dục chân
chính đã lên tiếng phản đối về vấn đề nầy nhưng một số đảng viên bảo thủ « cho
rằng đó là việc giáo dục yêu nước, như một đại biểu đã phát biểu tại Quốc hội
vào ngày 7/11/2006» (Truyền Thông, số 22&23, tr. 114).
Báo cáo
của Đại học Harvard nói rõ hơn về hậu quả của chuyện dạy chính trị tuyên truyền
trong đại học VN :
“… Surveys conducted by
government-linked associations have found that as many as 50 percent of
Vietnamese university graduates are unable to find jobs in their area of
specialization…With up to 25% of undergraduate curricula devoted to required
coursework laden with political indoctrination, it is little wonder that
Vietnamese students are ill-prepared for either professional life or graduate
study abroad…
Có thể
lấy thí dụ trường hợp hảng Intel tìm kiếm kỹ sư VN khi hảng thiết lập tại Tp.
HCM là điển hình. Với 2000 ứng viên, chỉ có 90 người đạt được tiêu chuẩn (5%)
và sau cùng trong số nầy chỉ có 40 người có trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu
tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tồi tệ nhất trong số các nước mà
họ đầu tư. ” (Harvard
Kennedy School.
Memorandum Higher Education Task Force, November 2008, p.2).
Giáo dục
đại học VN tụt hậu, các nhà đầu tư cho rằng việc thiếu các chuyên viên kỹ thuật
và quản trị có khả năng là một trở ngại lớn trong công cuộc kỹ nghệ hóa quốc
gia. Về phương diện nghiên cứu và sáng tạo, đại học VN vẫn còn ấu trỉ trong
công tác giảng dạy thực nghiệm, bởi phương pháp thầy đọc trò chép, thiếu tài
liệu nghiên cứu, thiếu phòng thí nghiệm , do đó các văn bằng tiến sĩ do đại học
VN sản xuất tử 35 năm nay chủ yếu là các khoa nhân văn, chính trị, điều khiển
bởi các giáo sư nay đã già nua, tốt nghiệp từ các đại học Liên Sô và Đông Âu,
thiếu tiếp cận và cập nhật hóa kiến thức mới. Vì nhu cầu sỉ số, vì phe
nhóm, các tân tiến sĩ đa số không có khả năng sáng tạo, nên VN hoàn toàn vắng
bóng trong lãnh vực nghiên cứu và sáng chế. Thực là một mối nhục lớn khi các
quốc gia như Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân, là các quốc gia sánh vai với VNCH trước
1975, thì nay lại vượt qua VN Cộng Sản quá xa.
Một vài
thí dụ được bản báo cáo của Đại Hoc Harvard trích dẫn.
Bảng 1.
Bài viết được đăng trong các tạp chí khoa học 2007
Đại
Học
|
Quốc
gia
|
Số
bài viết
|
Seoul National
University
|
Hàn Quốc
|
5 060
|
National University
of Singapore
|
Singapore
|
3 598
|
Peking University
|
Trung
Quốc
|
3 219
|
Fudan University
|
Trung
Quốc
|
2 343
|
Mahidol University
|
Thái Lan
|
950
|
Chulalongkorn University
|
Thái Lan
|
822
|
University of Malaya
|
Mã Lai
|
504
|
University of Philippines
|
Phi Luật
Tân
|
220
|
Vietnam National
University
(Hanoi & HochiMinh City)
|
Vietnam
|
52
|
Vietnam Academy of Science
&Technology
|
Vietnam
|
44
|
Nguồn :
Science Citation Index Expanded. Thomas Reuters
Bảng 2. Các quốc gia Á Châu có số đại học xếp hạng hàng đầu trong 200
đại học năm 2010
Quốc
gia
|
Số ĐH
|
Tên trường ĐH có hạng cao nhất
|
Nhật Bản
|
56
|
Tokyo U : 5è;
Osaka U : 7è
|
Hàn Quốc
|
42
|
Seoul U : 6è ;
KAIST : 7è
|
Trung Quốc
|
40
|
Beijing U
:12è; Tsinghua U : 16è
|
Đài Loan
|
17
|
Taiwan U :
21è, Cheng Kung U : 31è
|
Án Độ
|
12
|
Institute of Technology
Bombay : 34è
|
Hong Kong
|
7
|
Hong
Kong U : 1er, HKU of Tech: 2è
|
Indonésia
|
7
|
Gadjah
Mada U : 85
|
Thái Lan
|
7
|
Chiang Mai U : 79è
|
Malaysia
|
6
|
Universiti
Malaya: 42è
|
Philippines
|
4
|
Atento de
Manila U : 58è
|
Singapore
|
2
|
National
U of Singapore
: 2è
|
Tổng
cộng
|
200
|
|
Hồng Kong và Singapore
tuy ít có số đại học trong bảng xếp hạng, nhưng lại có những đại học đứng hàng
đầu : 2 đaị học của Hong Kong đứng hạng nhất và nhì, đại học Singapore đứng hạng 3. Nhật bản là
quốc gia có nhiều nhất đại học nổi tiếng (56 trường) ở Tokyo,
Osaka, Kyoto,
Tohuku, Nagoya.
Các bảng thống kê quốc tế trên cho thấy, chỉ với các quốc gia châu Á mà
thôi, VN thực sự lạc hậu về việc đào tạo khoa học kỹ thuật. Trong bảng xếp hạng
các đại học Á Châu năm 2010, trong số 200 trường hàng đầu, không thấy có trường
đại học nào của VN.
Bảng 3.
Số bằng sáng chế được cấp năm 2006
Hàn Quốc :
102 633; Trung
Quốc : 26 292; Singapore : 995; Thái
Lan : 158; Mã Lai : 147; Phi Luật Tân : 76; Việt
Nam : 0 (Nguồn : World Intellectual Property
Organization , 2008)
Lãnh
đạo bất tài và khoác lác
GS Hoàng
Tụy, nhà toán học số một của VN, đã góp phần vào việc nghiên cứu thuyết Tối
ưu toàn cục (Global optimization), được nhiều đại học quốc tế mời làm giám
khảo trong các kỳ thi tiến sĩ về Toán, được huy chương Hồ Chí Minh, trong bài
tham luận đăng trên báo Tia Sáng online ngày 5 tháng 10 năm 2009 tựa là Giáo
dục : xin cho tôi nói thẳng đã thẳng thắn chỉ trích giới lãnh đạo giáo dục
bất tài. Không dám đụng tới nhà giáo dục lớn được đất nước nể trọng, chính phủ
quay ra đóng cửa báo Tia Sáng.
Sau đây là
những đoạn văn làm chết tờ báo :
“Sự sa sút của giáo dục có nguyên
nhân khách quan : do đất nước nghèo, đầu tư không đủ, do trình độ non yếu của
thầy cô giáo, do ý thức của người dân lạc hậu, do phụ huynh cũng là đồng tác
giả của nhiều sai lầm yếu kém của giáo dục. Đương nhiên tất cả những nguyên
nhân nầy đều đúng. Song muốn lay chuyển tình hình phải thừa nhận nguyên nhân
chủ yếu, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, đó là lãnh đạo, quản lý bất cập, bất
cập cả tâm lẫn tầm và từ trên xuống dưới.
Giáo
dục đại học cao đẳng có nhiều chuyện ly kỳ : khắp nước, kể cả đại học quốc gia,
tràn lan và bát nháo «đào tạo liên kết», môn học một học kỳ chỉ cần 3-4 ngày
xong hết cả học lẫn thi, nên ai cũng học được, trường trung cấp cũng đào tạo
thạc sĩ là chuyện hi hữu trên thế giới. Chẳng lạ gì trong vài năm đã xuất hiện
hàng mấy trăm đại học mới, lại sắp có cả Văn Miếu hiện đại xây dựng trên 25 ha đất cho đủ chỗ vinh
danh hết tiến sĩ thời nay. Lạ nhất là đề án tiến sĩ hóa, thạc sĩ hóa 100% cán
bộ công chức của thủ đô để «đột phá tư duy lãnh đạo (may mà kế hoạch nầy đã tạm
rút lại sau khi bị phản đối kịch liệt).Cái não trạng sính bằng cấp và thói hư
học thâm căn cố đế bị lợi dụng triệt để, biến kinh doanh chữ nghĩa thành một
nghề phát đạt chưa từng thấy, trường tư được tự do chạy theo lợi nhuận, bất kể
chất lượng nào chỉ cần trưng biển đại học quốc tế, tha hồ đặt ra những khoảng
thu kỳ dị bóc lột người học…”
Bài nhận
định trên là một cáo trạng hùng hồn về sự bất tài của lãnh đạo giáo dục
VN.
Vô trách nhiệm, đổ lỗi cho kẻ khác, phô trương, là những bản chất căn bản của sự
bất tài và là những bản chất điển hình của giới lãnh đạo Cộng Sản. Ba năm trước
đây, khi nhận chức Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục, ông Nguyễn Thiện Nhân
đã chỉ trích những người tiền nhiệm và hứa hẹn hàng trăm dự án cải tổ. Tốt
nghiệp tiến sĩ từ Đông Đức, với những quan niệm giáo điều thời bao cấp, tự cao
vì có nhiều quyền lực trong đảng, ông Nhân đã gạt bỏ mọi đề nghị hợp tình hợp
lý của các nhà giáo dục cấp tiến. Triều đại của Tổng trưởng Nhân là triều đại
của những dự án dang dở, thất bại và những khẩu hiệu phô trương . Xin đan cử
vài khẩu hiệu vang dội một thời làm giới giáo dục điên đảo.
- hai không : nói không với tiêu cực trong thi cử, nói không với bịnh
chạy theo thành tích.
- ba công khai : công khai điều kiện đào tạo, công khai nguồn lực, công
khai tài chính thu chi.
- bốn kiểm tra : kiểm tra ngân sách địa phương chi cho giáo dục, kiểm
tra sử dụng nguồn học phí, kiểm tra tiến độ kiên cố hóa trường lớp, kiểm tra
xây dựng nhà công cụ cho giáo viên.
- năm quy luật chi phối hệ thống giáo dục...
Trang giấy
có hạn, chúng tôi không thế nào kê khai hết những tuyên ngôn, khẩu hiệu sưu tầm
được nên phải dừng ở khẩu hiệu năm để nhảy qua khẩu hiệu mới nhất «12
nhóm giải pháp và 60 nhiệm vụ» khi ông Phó Thủ Tướng được mời ra điều trần ở Quốc
Hội sau khi bị mất chức Bộ Trưởng Giáo Dục. Những khẩu hiệu mà ông đề ra
là những dự án mà ông không thực hiện được và khi bị Quốc Hội chất vấn, ông vắn
tắt trả lời là các nhà lãnh đạo chính trị và giáo dục từ 1975 phải
chia sẻ trách nhiệm với ông. Tuy vậy, ông vẫn sáng giá và có thể thay ông
Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng. Đúng như Ông Hoàng Tụy đã ví von mai mỉa : «có người khen Bộ Giáo
Dục trơ như đá, vững như đồng» , chế độ Cộng Sản hôm nay mang bản chất của một
tổ chức mafia, trong đó quyền lực và quyền lợi cá nhân và bè đảng là cứu cánh,
và sau nửa thế kỷ cầm quyền, hồng vẫn hơn chuyên.
Bản chất
vô trách nhiệm của chánh phủ đã đẻ ra chánh sách «dạy thêm -học thêm», làm
xuống cấp phẩm chất giáo dục và nhân phẩm của nhà giáo. Ai cũng biết là trong
các ngành nghề, dạy học là nghề không thể có tham nhũng bởi lẽ không có gì để
tham nhũng và thiên chức của nhà giáo, để được học trò tin tưởng và kính trọng,
nhà giáo phải có một cung cách để làm gương. Nhưng từ sau 1975, Cộng Sản đã
nhuộm đen nhà giáo, và tham nhũng trong giáo dục cũng là chuyện tất nhiên như
bao ngành nghề khác.
Chuyện nhà
giáo xuống cấp bắt đầu với chuyện cô giáo, thầy giáo phải bán cái bánh cây kẹo
cho học trò của mình vào những năm đầu khi đất nước được «thống nhứt» sự nghèo
đói. Một số giáo chức, để tránh nhục nhã, kêu gọi học sinh của mình về nhà dạy
thêm lén lút để phụ huynh cho chút quà bánh, phụ thêm vào số lương chết đói để
cầm hơi. Từ việc dạy lén lút học sinh tiểu học, trung học lúc ban đầu, việc dạy
thêm và học thêm đã dần dần trở thành công khai và bành trướng lên cả đại
học.Việc cũng dễ hiểu thôi, một giảng viên đại học lảnh lương trung bình tương
đương với 150 mỹ kim, chỉ vừa đủ nuôi thân, phải dùng mồ hôi nước mắt để dạy
thêm hầu nuôi sống gia đình. Lương ít, dạy nhiều, giáo sư làm sao có thời giờ
nghiên cứu, kể cả các bài giảng từ năm nầy sang năm khác vẫn không thay đổi
Cái vô trách nhiệm của chánh phủ là dù biết đời sống kinh tế của giáo
chức khó khăn mà không có giải pháp để chuyện dạy thêm - học thêm trở thành như
một quốc sách, biến tất cả trường học trong nước, từ tiểu học đến đại học thành
trường tư thục, mặc nhiên bắt nhân dân phụ giúp lương cho giáo chức.
Khi lương
ít thì lậu nhiều, khi thượng bất chính thì hạ tắc loạn, trường học tha hồ mở ra
các kỳ thi để «kiểm tra, sát hạch » học sinh. Giáo chức dạy ở trường công một
phần, và giành một phần để dạy tư, dạy các bài «tủ», là dịp cho các thầy cô
cạnh tranh nhau, bán đề thi, sửa điểm thi, kể cả việc làm bài thi cho học sinh
trong các kỳ thi nhập học, tốt nghiệp, làm luận án, thi tuyển học bổng…Chánh
sách dạy thêm - học thêm đã làm băng hoại đạo đức hàng ngũ giáo chức, tạo thêm
phân cách trí tuệ giữa người giàu và kẻ nghèo, bởi lẽ người nghèo đã quá chật
vật đóng học phí cho chính phủ thì tiền đâu đóng học phí để học thêm, lo lót
cho giáo sư trong các kỳ thi, và cuối cùng đành phải bỏ học. Đó là thành tích
của chế độ ưu việt đỉnh cao trí tuệ.
Khoác lác
là một bản chất khác của chế độ Cộng Sản mà dự án đào tạo 23 000 tiến sĩ
trong 10 năm (2010-2020), xây dựng 4 trường đại học đẳng cấp quốc tế, một
trường vào top 200 thế giới…là những dự án chứng tỏ sự khoác lác cùng cực của
những nhà lãnh đạo giáo dục và ngoài giáo dục Cộng Sản.
Thử bàn
qua về dự án 23 000 tiến sĩ trong 10 năm. Theo dự án, chính phủ sẽ
đào tạo 23 000 tiến sĩ với kinh phí là 778 triệu mỹ kim, 10 000 đào tạo
trong nước, 10 000 đào tạo ở ngoài nước và 3000 với kinh phí hợp tác giữa đại
học VN và ngoại quốc. Chỉ cần có một tối thiểu kiến thức đại học thì thấy ngay
là dự án bất khả thi.
Trước tiên
là thời gian đào tạo. Thông thường thời gian tối thiểu để đào tạo một người có
cử nhân đề đỗ tiến sĩ là 4 năm. Nếu chương trình thực sự bắt đầu năm 2010 thì
năm 2014 mới có nhóm tiến sĩ đầu tiên, và như vậy trong 6 năm từ 2014 đến
2020, mỗi năm phải có 3800 ứng viên học trình tiến sĩ. Thông thường, tỷ lệ cử
nhân đi học tiến sĩ độ 1 - 2%, nghĩa là mỗi năm VN phải cung cấp từ
200 000 đến 380 000 cử nhân để sàng lọc được số ứng viên cần thiết.
Muốn như vậy, đại học VN phải phát văn bằng cử nhân giấy để có đủ số ứng
viên như trên. Ngoài ra còn phải kể đến trình độ kiến thức và ngoại ngữ của cử
nhân VN hôm nay, làm sao có thể tiếp tục bậc hậu đại học ở ngoại quốc
được?
Đối với
10 000 tiến sĩ đào tạo trong nước, ai sẽ là giáo sư giảng dạy. Theo thống
kê của nhà nước, VN hiện nay có 6217 tiến sĩ trong đó chỉ có 10% tốt nghiệp ở
ngoại quốc. Ngoài ra, 70% tiến sĩ VN làm công chức, như vậy chỉ có 30% tức
khoảng 2000 tiến sĩ đang làm công việc giảng dạy. (RFA,22/6/2010)
Trình độ
kiến thức của các giáo sư tiến sĩ VN cũng đáng nghi ngờ. Trong cuộc điều trần
trước Quốc Hội ngày 7/11/2006, đại biểu Huỳnh thị Hường, tỉnh Quảng Nam đã phát
biểu như sau :
“Về vấn đề đào tạo tại chức trình độ
thạc sĩ, tiến sĩ, theo nghiên cứu mới đây cho thấy, có gần 90% tiến sĩ không đủ
trình độ áp dụng vào cuộc sống. Một số công trình khoa học chỉ là vòng khép kín
từ thư viện đến thư viện và học vị của một số vị, kể cả trong ngành giáo dục
chỉ là để giữ ghế. Hiện có nguy cơ đáng báo động là đội ngũ kế cận những giáo
sư, tiến sĩ trong ngành giáo dục ở tuổi 70 chưa có người thay…”
Về chuyện
giáo sư lão niên, GS Đỗ Trần Cát, Tổng Thư Ký Hội Đồng Chức Danh Giáo Sư
Nhà Nước đã phát biểu :
“Đến thời điểm nầy, có khoảng 80% GS
Việt Nam có tuổi trên 60, chỉ có khoảng 20% ở độ tuổi dưới 60. So với thế giới,
tuổi giáo sư VN là quá già. ” (Truyền Thông 22&23, tr. 102)
Về chi
phí, thông thường mỗi năm học ở ngoại quốc, sinh viên cần khoảng 30 000 mỹ
kim, như vậy để hoàn tất học trình tiến sĩ, mỗi sinh viên cần độ 120 000
mỹ kim. Với 10 000 tiến sĩ, chi phí sẽ là 1,2 tỷ MK, không kể chi phí cần
thiết cho 10 000 tiến sĩ đào tạo trong nước. Dựa trên căn bản nào, dự án
ấn định kinh phí 778 triệu MK chưa kể lạm phát.
Trong
trạng huống như vậy, dự án đào tạo 23 000 tiến sĩ trong 10 năm là chuyện
hoang tưởng nếu không nói là khoác lác.
Dự án tiến
sĩ hóa hàng ngủ cán bộ ở thủ đô trước đây đã tạo nên sự chế riểu của người dân
nên chính phủ phải tạm ngưng. Dự án 23 000 tiến sĩ và các dự án bước nhảy
vọt đại học đang được các nhà lãnh đạo thường xuyên nhắc đến như niềm tự hào
của dân tộc. Cho đến bao giờ người dân VN mới thoát được sự khoác lác và lừa
dối của người Cộng Sản ?
Kết
luận
Khi nghiên
cứu về một vấn đề, sự liêm chính đòi hỏi người nghiên cứu phải nhìn vấn đề qua
cái tốt và cái xấu, ưu và khuyết điểm. Đọc nhiều tài liệu về giáo dục và đại
học VN, người viết chỉ toàn thấy những lời chỉ trích, nếu không phải là những
tuyên ngôn, tuyên truyền của chính phủ.
Bài viết
không đi sâu vào từng chi tiết của sự việc bởi giới hạn số trang viết, và bởi
càng tìm hiểu, càng thấy đau đớn phũ phàng cho một quốc gia có 85 triệu dân,
chỉ trong 35 năm, dưới sự cai trị của những người độc tài và bất tài đã đẩy nền
giáo dục đến tình trạng lạc hậu và đưa xã hội tiến dần đến chỗ mất đạo đức, nếu
không muốn nói là đã mất đạo đức.
Để kết
luận, không gì tốt hơn là nhờ lời « nói thẳng » của giáo sư Hoàng Tuỵ,
nhà giáo được trong nước và thế giới kính nể về tài năng và tấm lòng đối
với nền giáo dục .
“…
Không nói chi nhiều, tôi chỉ xin nêu hai việc. Một là cách dạy chính trị cổ lỗ,
vô bổ, có tính chất kinh kệ tôn giáo, chứ không phải nhằm phát triển tư duy
khoa học, mà lại chiếm nhiều thời gian chỉ để cung cấp cho học sinh một cách
nhìn xơ cứng về thế giới, thay vì như lý thuyết đề ra, một vũ khí cải tạo để
xây dựng xã hội. Hai là, trong khi cuộc cạnh tranh và hội nhập ở thời đại kinh
tế trí thức đòi hỏi nhiều đức tính và năng lực, trước hết là tính trung thực và
năng lực sáng tạo, hai cái mà xã hội ta đang thiếu nghiêm trọng, thì, trong nhà
trường, gian lận dưới mọi hình thức, và thói lười biếng suy nghĩ, đầu óc bắt
chước, sao chép, học vẹt, nô lệ tư duy, lại phát triển mạnh hơn bao giờ hết
trong lịch sử giáo dục của ta. Nói một đàng, làm một nẻo, học tách rời với
hành, chuộng hình thức, hư danh, chạy theo các loại nhãn mác rởm, không còn
thói xấu nào không bị lên án, thế nhưng thực tế thì lại khác, và buồn thay,
gương xấu nhan nhản không chỉ ở chốn học đường, mà ngay trong giới cầm cân nẩy
mực về giáo dục và khoa học. ”
Và ông kết
luận :
“Những
đổi mới trong các đề án công tác của ngành giáo dục, giỏi lắm cũng cho ta một
nền giáo dục tốt theo chuẩn mực… nửa thế kỷ 20, chứ không thể biến nó thành một
nền giáo dục hiện đại ở thế kỷ 21. Cứ xem bản chiến lược giáo dục 2009-2020 thì
rõ : ví thử chiến lược nầy được thực hiện đầy đủ, điều khó có thể, thì đến năm
2020, VN cũng chỉ có một nền giáo dục kiều 1950, lạc hậu, còn xa mới hòa nhập
được vào nền văn minh thời đại.”
Nhà văn Trần Mạnh Hảo, tác giả tiểu
thuyết «Ly Thân» đã can đảm chỉ trích chế độ từ thập niên 80, trong bài tham
luận Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất
nước đọc trước Đại hội nhà văn lần thứ VIII vừa được tổ chức tại
Đà Lạt ngày 12 tháng 7 năm 2010 đã nhận định:
“….Nền
giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến
của ông Phó Thủ
tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay
đồng nghĩa với dối trá: thầy dối trá thầy, trò dối trá trò, quản lý giáo dục
báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước
đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là
sách đạo văn. Cán bộ có chức quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật
nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công
khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ
tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến
sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra
chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên
phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng
tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được
học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính
trị hóa nền giáo dục đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục
như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính?”
Và ông kết luận: “Chính trị hóa giáo
dục chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân
xây dựng tương lai.”
Ông Aziz Nesin, văn hào Thổ Nhĩ Kỳ, đoạt
nhiều giải thưởng văn chương quốc tế, cũng gởi bài tham luận đến đại hội với
lời lẽ nhạo báng thật là nhục nhã cho đất nước :
“…Các bạn đã rút ngắn được đáng kể con đường
dẫn đến kho tàng tri thức loài người. Nước Mỹ luôn tự hào là một trong những
cường quốc trên thế giới, có những trường đại học hàng đầu như Havard, MIT…
nhưng họ vẫn phải mất từ 7 đến 10 năm mới đào tạo xong một tiến sĩ. Tiến sĩ của
Việt Nam không cần biết tiếng Anh, bảo vệ thành công luận án trong vòng sáu
tháng. Nếu chỉ số hạnh
phúc của Liên Hiệp quốc lấy tiêu chí hài hước làm trọng thì Việt Nam sẽ đứng
trong “top ten” các dân tộc hạnh phúc trên thế giới.
Chỉ có ở đất
nước của các bạn, “thế giới ngày mai” mới đeo cặp đu dây qua sông tới lớp. “Vì
lợi ích mười năm trồng cây”, các bé gái tuổi vị thành niên thành món quà của
thầy hiệu trưởng gửi tới cho bạn bè trên tỉnh. “Tiên học lễ”, nữ sinh lột quần
áo nhau quay phim đưa lên youtube. Cô giáo túm vào chỗ kín của học sinh nam.
Trò hư phải thay nhau liếm ghế. “Hậu học văn”, quay cóp được nâng lên thành
nghệ thuật. Thầy ra bài, thầy thu tiền, thầy cho đáp án trước ngày thi. Trò
thuê người học thay, thuê người viết luận văn, bằng giả bày như rau dưa ngoài
chợ.
Chỉ có ở đất
nước của các bạn, cảnh sát gọi người vi phạm giao thông vào góc đường làm luật.
Cò kè cưa đôi. Người anh hùng bỗng chốc trở thành tội phạm vì mấy chục triệu
quỹ đen. Kẻ tham nhũng tiền tỷ tỷ được xem xét vì có thân nhân tốt. Chưa tranh
tụng trước tòa đã biết bao nhiêu năm nằm khám. Tử tù sinh con trong phòng biệt
giam. Chỉ có ở đất nước của các bạn, bê tông mới được đúc bằng cốt tre. Cầu
vượt đang xây dầm đã lao xuống đất. Hầm đường bộ thành sông trong thành phố.
Đường chưa bàn giao đã sụt, lún, chân chim. Chỉ có ở đất nước các bạn, mới có
thủ tướng chân tình “ba năm qua tôi chẳng kỷ luật ai. Các nghị sĩ hồn nhiên
đồng thuận.
“Chỉ có ở đất nước các bạn, người viết bằng mọi giá chen chân vào Hội Nhà văn. Một phần ba số hội viên muốn được làm lãnh đạo. Đại hội không bàn chuyện văn chương, chỉ lo bầu bán. Ai cần Hội Nhà văn? Hội Nhà văn cần ai? ”
Và ông mỉa mai kết luận:
“Vẫn biết Đại Hội mới bắt đầu, nhưng chắc chắn sẽ thành công rực rỡ. Chúc
các bạn có một Ban chấp hành mới, hoạt động không cần tiền thuế của dân. Chúc
các bạn có nhiều tác phẩm đoạt giải Nobel, tất cả nhà văn sống được bằng ngòi
bút. ”
(Lê Thị Thanh Chung dịch, phổ biến
trên net ngày 8/8/2010)
Mỗi ngày, đọc
tin trong nước và ngoài nước, người VN ưu tư với thời cuộc không khỏi bi phẩn
trước sự xuống cấp trầm trọng về giáo dục và đạo đức xã hội của Việt Nam. Làm
sao mà đất nước khá lên được khi người lãnh đạo quốc gia, ông Nguyễn Tấn Dũng
đã bỏ học đi làm du kích từ lúc 12 tuổi (nhưng trong lý lịch khai là có Cử Nhân
Luật), sau làm bí thư huyện kiêm trưởng ban công an huyện Hà Tiên
(1980-1986) đặc trách chỉ huy buôn lậu ở cửa biển Hà Tiên để làm kinh tài cho
đảng và cho mình, được cha đỡ đầu Lê
Đức Anh đưa lên làm Thứ Trưởng Bộ Công An rồi Thống đốc ngân
hàng và khi nhậm chức thủ tướng đã hùng dũng tuyên bố :«Tôi kiên quyết chống
tham nhũng, nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay». Vừa dốt
vừa láo khoét, Dũng và đồng bọn hiện nay là những tay tham nhũng nhất nước.
Làm sao mà dân
VN có thể tin được người Cộng Sản khi ông chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã
tuyên bố không biết ngượng : “Mình vừa
động viên ông Obama, mình muốn phân hóa cái nội bộ của ổng…” (nói chuyện với « kiều
bào» thân Cộng về nước đến vái lạy chủ tịch năm 2009)
Độc tài, ngu
dốt, lừa dối và tham nhũng đã làm cho đất nước VN suy đồi mà giáo dục là căn
bản của một dân tộc. Đảng Cộng Sản VN phải trả lời trước lịch sử trọng tội nầy.
Lâm Văn Bé
Montréal
09-2010
________________
Thư mục chính
yếu
- Nguyễn Đức Tuyên.
Một cái nhìn về giáo dục đại học VN.
- Montréal : Truyền Thông , no.22&23, 2007.
-
Harvard Kennedy School.
ASH Institute. Vietnamese higher
education: crisis and response/Thomas J. Valley & Ben Wilkinson,
November 2008.
-
Hoàng Tụy. Giáo dục : Xin cho tôi
nói thẳng. (trang mạng của Hoàng Tụy)
-
Nghiêm Văn Thạch.
Đảng CSVN trong tình trạng hiểm nghèo/Phong
trào Dân Chủ Đa Nguyên
-
Đại học VN. www.vi.wikepedia.org
- Các trang mạng với chủ đề về giáo dục VN,
đại học VN.
_________________________________________________
*
Lâm Văn Bé, Cao học Thư Viện Học, Université de Montréal (1978). Từ
năm 1980 đến khi về hưu, là thư viện trưởng các thư viện của
Thành phố Montréal (Canada). Trước 1975
là giáo chức.